Khối doanh nghiệp nhà nước: ‘Căn bệnh ung thư’ trong nền kinh tế Việt Nam
AFP
HÀ NỘI – Thiếu minh bạch, tham nhũng, kém hiệu quả – các công ty nhà nước tại Việt Nam đã quen với những lời chỉ trích, nhưng hiện nay họ đang bị cáo buộc đã tạo ra cuộc khủng hoảng hệ thống kinh tế mà chế độ cộng sản không thể sửa chữa.
Hơn 25 năm sau khi bắt đầu quá trình đổi mới sang nền kinh tế thị trường, chính phủ cố gắng tháo gỡ một mạng lưới doanh nghiệp nhà nước phức tạp vốn đang bóp nghẹt nền kinh tế và ngoan cố chống lại những cải cách cần thiết.
“Khu vực doanh nghiệp nhà nước là một sai lầm lớn nhất của Đảng Cộng sản”, kinh tế gia Nguyễn Quang A tại Hà Nội cho biết, và thêm rằng “cơn bạo bệnh” này đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế rộng lớn hơn.
“Nền kinh tế đang trong tình trạng tồi tệ nhất kể từ năm 1986,” ông nói với AFP, đề cập đến cuộc khủng hoảng kinh tế trong đó pha lẫn những cải cách với nền kinh tế thị trường tự do.
Khu vực [doanh nghiệp] nhà nước là “đứa trẻ hư hỏng của các nhóm lợi ích khác nhau trong đó họ không muốn cải cách vì muốn bảo vệ quyền lực của họ… Họ đang tìm cách duy trì tình trạng đó với bất cứ giá nào”.
Mặc dù nước này đã liên tục cắt giảm lãi suất nhằm kích thích nền kinh tế nhưng tăng trưởng hàng năm của Việt Nam đã sụt giảm xuống mức thấp nhất trong 13 năm qua trong năm 2012. Trong khi đó lạm phát đang bắt đầu tăng trở lại và việc này gây thêm hạn chế đối với gói kích cầu từ phía chỉnh phủ.
Việt Nam có hơn 1.300 doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Họ chiếm 45% tổng vốn đầu tư của cả nước, sử dụng 60% vốn vay từ các ngân hàng thương mại và chiếm 70% viện trợ phát triển.
Nhưng theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố hồi tháng Mười một vừa qua thì các doanh nghiệp nhà nước này chỉ đóng góp 30% vào tăng trưởng GDP hàng năm.
Một số nhà phân tích cho rằng nếu tính các công ty con thuộc doanh nghiệp nhà nước và cái gọi là doanh nghiệp tư nhân mà trong thực tế đều dưới quyền kiểm soát của các quan chức hàng đầu trong chính phủ thì khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm lên đến 70% trong các hoạt động kinh tế tại Việt Nam.
Tuy nhiên, lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước đang trong tình trạng rất yếu kém. Doanh nghiệp nhà nước đã rót khoảng 61 tỷ USD nợ nần, chiếm hơn một nửa tổng số nợ công tại Việt Nam.
Một số các doanh nghiệp nhà nước đã sụp đổ trong thời gian vừa qua, bao gồm cả tổng công ty vận chuyển khổng lồ Vinashin – với số nợ lên đến 4,4 tỷ USD – và Vinalines đã không thể thanh toán số nợ 1,1 tỷ USD.
Sự thất bại của họ đã bị nhiều chỉ trích từ những người chống Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – người được xem như một nhà cải cách khi ông nhậm chức vào năm 2006, nhưng hiện nay là người bị đổ lỗi gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế tại nước này.
Ông Dũng đã đấu tranh cho các doanh nghiệp nhà nước như một cách để giúp Việt Nam đi đến sự thịnh vượng khi ông trích dẫn mô hình từ các tập đoàn Chaebol của Nam Hàn.
Các kinh tế gia nói rằng các doanh nghiệp nhà nước đã trở thành chuyên gia che giấu các khoản nợ, có nhiều chiến lược không thể hiểu được, đầu tư nguy hiểm trong các lĩnh vực không thuộc sở trường cũng như đưa ra những chiến thuật xảo trá để tránh né các quy định của chính phủ.
Nhiều quan chức hàng đầu điều hành các công ty nhà nước thường xuyên phô trương lối sống không phù hợp với thù lao chính thức của họ, làm công chúng tức giận vì tình trạng tham nhũng, điều hành kém hiệu quả và lãng phí.
“Cuộc khủng hoảng nợ công là vấn nạn kinh tế đầy kịch tính đã kéo dài năm năm nay rồi và được liên kết chặt chẽ với cơ quan của Đảng Cộng sản”, ông Quang A nói.
Trong vài tháng qua, tin đồn đã được nhân đôi về những điểm yếu của một loạt các doanh nghiệp nhà nước khác.
Truyền thông chính thức đã chỉ ra rằng Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và Tập đoàn Than Vinacomin khổng lồ nặng ký là hai tập đoàn sẽ bị sụp đổ tiếp theo. Tuy nhiên, chúng chỉ sống lây lất nhờ sự hỗ trợ và cấp thêm tín dụng từ chính phủ.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết vào tháng Mười hai thì khoảng 30 trong 85 doanh nghiệp nhà nước lớn nhất đã tích lũy các khoản nợ từ 3 đến 10 lần lớn hơn so với vốn của họ.
“Mọi người cố tình vi phạm pháp luật vì lợi ích cá nhân”, ông nói, nhắc đến các khoản đầu tư khổng lồ vào các lĩnh vực mà họ không được phép hoạt động.
Người đứng đầu tổng công ty Vinashin đã bị kết án 20 năm tù giam, trong khi đó các quan chức hàng đầu tại Vinalines đang bị giam chờ ngày xét xử.
Hiện nay không có hệ thống giải pháp nào được đề xuất để tránh lặp lại những thất bại trên. Tuy nhiên, mô hình Việt Nam – sự pha trộn kỳ quặc của “nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa” đã bị mất uy tín cả trong lẫn ngoài nước.
“Các doanh nghiệp nhà nước phải cầu xin trợ cấp từ phía nhà nước để tồn tại – họ đã trở thành một căn bệnh ung thư trong nền kinh tế”, một đại biểu Quốc hội Việt Nam yêu cầu giấu tên nói.
“Quá trình cải cách hiện nay quá chậm bởi vì việc này đang gặp sự phản đối mạnh mẽ từ các lãnh đạo và giám đốc công ty. Việt Nam đã phải mất hàng chục tỷ đô la. Tuy nhiên, không ai bị đưa ra đối mặt với công lý cả”.
© AFP
Nguồn: Vietnam's state sector a 'cancer' in economy - AFP
HÀ NỘI – Thiếu minh bạch, tham nhũng, kém hiệu quả – các công ty nhà nước tại Việt Nam đã quen với những lời chỉ trích, nhưng hiện nay họ đang bị cáo buộc đã tạo ra cuộc khủng hoảng hệ thống kinh tế mà chế độ cộng sản không thể sửa chữa.
Một người đi xe đạp ngang qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trụ sở chính tại Hà Nội vào ngày 6 tháng 7 năm 2012. AFP |
“Khu vực doanh nghiệp nhà nước là một sai lầm lớn nhất của Đảng Cộng sản”, kinh tế gia Nguyễn Quang A tại Hà Nội cho biết, và thêm rằng “cơn bạo bệnh” này đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế rộng lớn hơn.
“Nền kinh tế đang trong tình trạng tồi tệ nhất kể từ năm 1986,” ông nói với AFP, đề cập đến cuộc khủng hoảng kinh tế trong đó pha lẫn những cải cách với nền kinh tế thị trường tự do.
Khu vực [doanh nghiệp] nhà nước là “đứa trẻ hư hỏng của các nhóm lợi ích khác nhau trong đó họ không muốn cải cách vì muốn bảo vệ quyền lực của họ… Họ đang tìm cách duy trì tình trạng đó với bất cứ giá nào”.
Mặc dù nước này đã liên tục cắt giảm lãi suất nhằm kích thích nền kinh tế nhưng tăng trưởng hàng năm của Việt Nam đã sụt giảm xuống mức thấp nhất trong 13 năm qua trong năm 2012. Trong khi đó lạm phát đang bắt đầu tăng trở lại và việc này gây thêm hạn chế đối với gói kích cầu từ phía chỉnh phủ.
Việt Nam có hơn 1.300 doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Họ chiếm 45% tổng vốn đầu tư của cả nước, sử dụng 60% vốn vay từ các ngân hàng thương mại và chiếm 70% viện trợ phát triển.
Nhưng theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố hồi tháng Mười một vừa qua thì các doanh nghiệp nhà nước này chỉ đóng góp 30% vào tăng trưởng GDP hàng năm.
Một số nhà phân tích cho rằng nếu tính các công ty con thuộc doanh nghiệp nhà nước và cái gọi là doanh nghiệp tư nhân mà trong thực tế đều dưới quyền kiểm soát của các quan chức hàng đầu trong chính phủ thì khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm lên đến 70% trong các hoạt động kinh tế tại Việt Nam.
Tuy nhiên, lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước đang trong tình trạng rất yếu kém. Doanh nghiệp nhà nước đã rót khoảng 61 tỷ USD nợ nần, chiếm hơn một nửa tổng số nợ công tại Việt Nam.
Một số các doanh nghiệp nhà nước đã sụp đổ trong thời gian vừa qua, bao gồm cả tổng công ty vận chuyển khổng lồ Vinashin – với số nợ lên đến 4,4 tỷ USD – và Vinalines đã không thể thanh toán số nợ 1,1 tỷ USD.
Sự thất bại của họ đã bị nhiều chỉ trích từ những người chống Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – người được xem như một nhà cải cách khi ông nhậm chức vào năm 2006, nhưng hiện nay là người bị đổ lỗi gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế tại nước này.
Ông Dũng đã đấu tranh cho các doanh nghiệp nhà nước như một cách để giúp Việt Nam đi đến sự thịnh vượng khi ông trích dẫn mô hình từ các tập đoàn Chaebol của Nam Hàn.
Các kinh tế gia nói rằng các doanh nghiệp nhà nước đã trở thành chuyên gia che giấu các khoản nợ, có nhiều chiến lược không thể hiểu được, đầu tư nguy hiểm trong các lĩnh vực không thuộc sở trường cũng như đưa ra những chiến thuật xảo trá để tránh né các quy định của chính phủ.
Nhiều quan chức hàng đầu điều hành các công ty nhà nước thường xuyên phô trương lối sống không phù hợp với thù lao chính thức của họ, làm công chúng tức giận vì tình trạng tham nhũng, điều hành kém hiệu quả và lãng phí.
“Cuộc khủng hoảng nợ công là vấn nạn kinh tế đầy kịch tính đã kéo dài năm năm nay rồi và được liên kết chặt chẽ với cơ quan của Đảng Cộng sản”, ông Quang A nói.
Trong vài tháng qua, tin đồn đã được nhân đôi về những điểm yếu của một loạt các doanh nghiệp nhà nước khác.
Truyền thông chính thức đã chỉ ra rằng Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và Tập đoàn Than Vinacomin khổng lồ nặng ký là hai tập đoàn sẽ bị sụp đổ tiếp theo. Tuy nhiên, chúng chỉ sống lây lất nhờ sự hỗ trợ và cấp thêm tín dụng từ chính phủ.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết vào tháng Mười hai thì khoảng 30 trong 85 doanh nghiệp nhà nước lớn nhất đã tích lũy các khoản nợ từ 3 đến 10 lần lớn hơn so với vốn của họ.
“Mọi người cố tình vi phạm pháp luật vì lợi ích cá nhân”, ông nói, nhắc đến các khoản đầu tư khổng lồ vào các lĩnh vực mà họ không được phép hoạt động.
Người đứng đầu tổng công ty Vinashin đã bị kết án 20 năm tù giam, trong khi đó các quan chức hàng đầu tại Vinalines đang bị giam chờ ngày xét xử.
Hiện nay không có hệ thống giải pháp nào được đề xuất để tránh lặp lại những thất bại trên. Tuy nhiên, mô hình Việt Nam – sự pha trộn kỳ quặc của “nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa” đã bị mất uy tín cả trong lẫn ngoài nước.
“Các doanh nghiệp nhà nước phải cầu xin trợ cấp từ phía nhà nước để tồn tại – họ đã trở thành một căn bệnh ung thư trong nền kinh tế”, một đại biểu Quốc hội Việt Nam yêu cầu giấu tên nói.
“Quá trình cải cách hiện nay quá chậm bởi vì việc này đang gặp sự phản đối mạnh mẽ từ các lãnh đạo và giám đốc công ty. Việt Nam đã phải mất hàng chục tỷ đô la. Tuy nhiên, không ai bị đưa ra đối mặt với công lý cả”.
© AFP
Nguồn: Vietnam's state sector a 'cancer' in economy - AFP
Không có nhận xét nào