Carlyle Thayer - Đánh giá vị thế chiến lược của Việt Nam (1)
Việt Nam hiện tại với cái tên chính thức là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), được thiết lập từ năm 1976 sau bốn thập niên rưỡi đấu tranh do đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) lãnh đạo chống lại chủ nghĩa thực dân Pháp và sự can thiệp của Hoa Kỳ. Khi cuộc chiến tranh chống Pháp chấm dứt vào năm 1954, Việt Nam bị chia đôi, và Bắc Việt Nam trở thành nhà nước cộng sản đầu tiên tại Đông Nam Á với tên gọi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Trong những năm đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Trung Quốc là nguồn viện trợ nước ngoài cũng như là khuôn mẫu phát triển chủ yếu của quốc gia này. Ví dụ, Việt Nam đã tiến hành cải cách ruộng đất vào giữa thập niên 1950 và đã tái tổ chức vùng nông thôn thành những hợp tác xã nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Liên Xô thay thế Trung Quốc để trở thành nhà viện trợ và khuôn mẫu phát triển chính của Việt Nam trong cuối thập niên 1950, khi Việt Nam áp dụng nền kinh tế tập trung. Kế hoạch Ba Năm Đầu tiên (1958-1960) và Năm Năm Đầu tiên (1961-1965) tập trung vào việc xây dựng ngành công nghiệp nặng. Sau thập niên 1960, đã có một thế hệ những người cộng sản Việt Nam mới được đào tạo tại Liên Xô, và ngày nay họ đại diện cho một tiếng nói đầy ảnh hưởng bên trong ĐCSVN đó là tiếp tục xem Nga như là một đối tác không thể thiếu trong việc phát triển và hiện đại hoá đất nước.
Khi ĐCSVN tìm cách thống nhất đất nước bằng cách tái lập cuộc chiến tranh vũ trang ở Nam Việt nam từ 1960 đến 1973, nguồn viện trợ chủ yếu của họ đến từ Trung Quốc lẫn Liên Xô. Trong cùng lúc, Bắc Việt Nam cũng tìm kiếm và đạt được hỗ trợ về chính trị lẫn vật chất từ các quốc gia xã hội chủ nghĩa Đông Âu, những nhà nước cách mạng và Phong trào Không Liên kết nhằm đạt được mục tiêu thống nhất đất nước của mình.
Kinh nghiệm đã dạy cho Việt Nam giá trị của việc chủ động sử dụng quan hệ ngoại giao quốc tế như là công cụ để đạt được quyền lợi quốc gia. Họ đã tận dụng bài học này để làm lợi thế cho mình khi những dị biệt về học thuyết nổ ra giữa Liên Xô và Trung Quốc trong những năm 1960 dẫn đến việc chia rẽ trong khối xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới. Trong khi những diễn tiến này tạo ra trở ngại cho giới lãnh đạo Việt Nam, họ đã nhanh chóng biến khó khăn thành lợi thế, phát động những nỗ lực ngoại giao quốc tế rộng rãi để biến Việt Nam thành trọng tâm của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc trên toàn cầu.
Ban đầu, cả Bắc Kinh lẫn Moscow đều không muốn bị xem là thiếu ủng hộ một đất nước nhỏ bé nghèo đói đang đấu tranh giành độc lập trước một nước Mỹ hùng mạnh đang can thiệp để hỗ trợ Nam Việt Nam trong cuộc chiến. Kết quả là các nhà ngoại giao Việt Nam đã biến mối kình địch Trung - Mỹ thành lợi thế của mình để có được vũ khí và những viện trợ khác. Giới lãnh đạo Việt Nam ngày nay cũng sử dụng một chiến lược tương tự trong việc giữ gìn quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Bối cảnh chiến lược của Việt Nam đã biến đổi từ cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 khi Tổng thống Hoa Kỳ lúc ấy là Richard Nixon tìm cách nối lại quan hệ với Trung Quốc. Chuyến thăm Bắc Kinh vào tháng Hai năm 1972 của Nixon là thời điểm thay đổi nó, sau đấy Trung Quốc bắt đầu cắt giảm viện trợ quân sự cho Việt Nam. Việc thay đổi chính sách của Trung Quốc dẫn đến tình trạng căng thẳng trong quan hệ Trung - Việt vào lúc cuộc chiến Việt Nam sắp chấm dứt. Những diễn tiến này đã củng cố niềm tin của nhiều người trong ĐCSVN rằmg những cường quốc chỉ biết chạy theo quyền lợi của chính mình. Họ kết luận rằng Việt Nam phải luôn cảnh giác để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi dân tộc.
Sau khi thống nhất đất nước vào năm 1975, Việt Nam tìm cách tái tổ chức nền kinh tế miền nam theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hà Nội quay lại chính sách kế hoạch tập trung với hàng loạt những kế hoạch 5 năm được khởi xướng vào năm 1976. Liên Xô vẫn là nguồn viện trợ chính từ nước ngoài và cứ sau mỗi kế hoạch 5 năm thành công lại tăng đôi số lượng trợ giúp.
Sự tiến bộ trong quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô lại trái ngược với mối quan hệ Trung - Việt đang bị xấu đi nhanh chóng, nó đạt đến điểm đáy khi Trung Quốc ủng hộ lực lượng Khmer Đỏ tại quốc gia láng giềng Cambodia. Vào năm 1977, Khmer Đỏ đã tổ chức những đợt xâm lấn qua biên giới vào miền nam Việt Nam. Mặc dù Việt Nam đã trả đũa với một cuộc tấn công qui mô lớn vào Cambodia, những cuộc xâm lấn của Khmer Đỏ do Trung Quốc hậu thuẫn vẫn tiếp tục.
Năm kế tiếp đã đánh dấu một điểm chuyển. Khi Việt Nam tham gia vào Hội đồng Hỗ trợ Kinh tế do Liên Xô đứng đầu vào giữa năm 1978, Trung Quốc phản ứng bằng cách cắt đứt chương trình viện trợ và rút hết các cố vấn về nước. Để đáp trả, Việt Nam ngã hoàn toàn về Liên Xô. Vào tháng Mười một 1978, Moscow và Hà Nội đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác 25 năm. Từ đó Việt Nam đã xem Liên Xô là điểm tựa của các chính sách quốc phòng và an ninh quốc gia của mình.
Vào tháng Mười hai năm ấy, Việt Nam đã tấn công và chiếm đóng Cambodia. Trung Quốc trả đũa vào đầu năm 1979 với một cuộc tấn công quân sự lớn vào các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam với mục đích “dạy cho Việt Nam một bài học.” Việt Nam sau đó đã đáp trả bằng cách cho phép Liên Xô được quyền đặt căn cứ tại Vịnh Cam Ranh. Mâu thuẫn Cambodia nhanh chóng chuyển thành một cuộc chiến tranh đại diện giữa Trung Quốc vốn đang hỗ trợ Khmer Đỏ và Liên Xô đang hậu thuẫn Việt Nam.
Vì chiếm đóng Cambodia, Việt Nam đã bị cắt viện trợ quốc tế và cấm vận thương mại. Ví dụ cả Nhật Bản và Úc đều đã phản đối bằng cách đình chỉ những chương trình hỗ trợ phát triển. Các quốc gia Đông nam Á trong tổ chức ASEAN đã đi đầu trong việc gây áp lực ngoại giao tại Liên Hiệp Quốc và các diễn đàn quốc tế khác nhằm ngăn cản chính phủ lệ thuộc do Việt Nam lập ra là Cộng hoà Nhân dân Kampuchea được chính thức công nhận ngoại giao.
Vấn đề Cambodia cuối cùng cũng đã chấm dứt bằng ba tiến triển quan trọng. Thứ nhất, Việt Nam nhận ra rằng cái giá phải trả trong việc can thiệp vào Cambodia thì quá nặng đối với công cuộc phát triển của mình. Trong khi nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng với sự sụp đổ của hệ thống kế hoạch tập trung theo kiểu Xô Viết, Việt Nam đã tiến hành một chương trình cải cách quan trọng vào tháng Mười hai năm 1986 được biết với cái tên “đổi mới”. Từ bỏ nền kinh tế kế hoạch tập trung, Việt Nam bắt đầu thử nghiệm những lực lượng kinh tế thị trường một cách cẩn trọng trong khi cũng kêu gọi đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Thứ hai, sự xuất hiện của tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev vào năm 1985 đã khởi động những thay đổi có ảnh hưởng rộng rãi trong chính sách của nhà nước Xô Viết, cả trong nước lẫn quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ. Những thay đổi này đã tạo thêm áp lực bắt Việt Nam phải thay đổi nền kinh tế của mình và rút quân khỏi Cambodia và họ đã hoàn thành việc rút quân vào tháng Chín năm 1989.
Thứ ba, ngay sau khi Bức màn Sắt sụp đổ ở Đông Âu, năm thành viên vĩnh viễn của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã có được một giai đoạn hợp tác dù ngắn ngủi nhưng chưa từng xảy ra, trong đó bao gồm những nỗ lực củng cố khu vực để đem lại những dàn xếp hoà bình cho Cambodia vào năm 1991.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu và sự tan rã của Liên bang Xô viết chắc chắn đã làm thay đổi bối cảnh chiến lược của Việt Nam, tạo nền tảng cho Việt Nam bước ra khỏi vòng cô lập và tiếp cận trực tiếp hơn với cộng đồng quốc tế trong khu vực lẫn toàn cầu.
Tuy nhiên, bất chấp sự đồng thuận trong toàn thể nội bộ ĐCSVN về việc cần thiết phải cải cách nền kinh tế trong nước, đảng vẫn tiếp tục bị chia rẽ trên nền tảng tư tưởng về định hướng chiến lược đối ngoại của đất nước. Giới bảo thủ trong đảng muốn Việt Nam nên nghiêng về Trung Quốc. Họ cho rằng Hoa Kỳ chỉ muốn lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa qua cái gọi là diễn biến hoà bình. Họ cũng tin rằng Việt Nam và Trung Quốc có thể giải quyết được những tranh chấp về hải phận trên biển Đông một cách hoà bình. Trong khi ấy những người cấp tiến trong đảng lại cho rằng Việt Nam không còn lựa chọn nào khác ngoài việc hoà nhập với nền kinh tế toàn cầu và tiến hành quan hệ ngoại giao với tất cả các quốc gia bất chấp hệ thống chính trị nào. Đặc biệt là họ muốn tiếp cận với những quốc gia có kinh tế phát triển, bao gồm Hoa Kỳ, để có được sức bật cho quá trình phát triển và hiện đại hoá của Việt Nam.
Cho đến nay, tình trạng chia rẽ này trong đảng vẫn tiếp tục ngăn cản sự phát triển của nền kinh tế thị trường và giới hạn mối quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ. Về mặt chính trị, Việt Nam vẫn giữ nguyên là một quốc gia độc tài và độc đảng.
Chính sách đối ngoại
Trong suốt 40 năm sau khi Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập từ Pháp vào năm 1945, giới lãnh đạo cộng sản của Việt Nam đã chấp nhận một thế giới quan đồng nhất với tư tưởng Mác xít - Lê nin nít đang thịnh hành. Theo quan điểm này, hướng đi của nền chính trị toàn cầu được xác định bởi những mâu thuẫn giữa hai thế giới xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, hay nói nôm na là giữa “địch và ta”. Mối tương quan giữa hai thế giới này là một cuộc đấu tranh “ai thắng ai”. Trong suốt giai đoạn 1945-1985, Việt Nam xem mình là tiền đồn của cuộc đấu tranh này. Hệ quả là giới lãnh đạo Việt Nam cảm thấy khối xã hội chủ nghĩa đã nợ Việt Nam không chỉ về tinh thần đoàn kết chính trị mà còn về việc ủng hộ vật chất.
Thế giới quan này bắt đầu thay đổi trong từ giữa đến cuối thập niên 1980, tuy nhiên khi những nhà soạn thảo chính sách Việt Nam bắt đầu nhấn mạnh hơn về quyền lợi quốc gia và ngoại giao thực dụng, trong khi cũng thừa nhận sức mạnh của kinh tế toàn cầu cũng như tác động của khoa học kỹ thuật là những yếu tố quyết định sức mạnh. Học thuyết hai thế giới của Việt Nam dần dần phải nhường bước cho một quan điểm tích cực hơn về hội nhập với kinh tế thế giới. Trong khi quan điểm cũ cho rằng mở mang quan hệ kinh tế với các quốc gia tư bản sẽ dẫn đến tình trạng nương tựa kinh tế và hoà nhập, quan điểm mới lại nhấn mạnh tính hội nhập, vốn được xem là tích cực hơn vì nó tạo ra cơ hội lẫn thách thức. Thế giới quan này cũng đón nhận một chính sách an ninh toàn cục hơn so với khái niệm an ninh quân sự cũ hạn hẹp.
Sự chuyển hướng này, vốn là sản phẩm phụ của việc thay đổi hoàn cảnh chiến lược, đã mở ra một cuộc tranh cãi gay gắt trong nội bộ đảng và vẫn còn tiếp tục cho đến nay, và khuôn khổ tư tưởng cũ trong quá khứ cũng vẫn chưa được từ bỏ hoàn toàn. Tàn dư của nó có thể thấy được hiện nay qua những ám chỉ về “mối đe doạ diễn biến hoà bình” như là thách thức chủ yếu đối với nền an ninh quốc gia Việt Nam.
Tuy nhiên, đã có một cuộc cách mạng trong thế giới quan của Việt Nam, bằng chứng là đã có ba nghị quyết được thông qua bởi Bộ Chính trị ĐCSVN. Nghị quyết đầu tiên số 32, được thông qua vào tháng Bảy 1986, tuyên bố “cần chủ động hơn trong giai đoạn phát triển mới, và chung sống hoà bình với Trung Quốc, ASEAN và Hoa Kỳ, và xây dựng Đông nam Á thành một khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác.” Theo những chủ trương này, các báo cáo chính trị lên Đại hội Đảng Toàn Quốc lần Sáu vào cuối năm 1986 đã ưu tiên mở rộng và nâng cao tính hiệu quả của các quan hệ kinh tế với bên ngoài.
Nghị quyết thứ hai, số 2, được thông qua năm 1987, yêu cầu rút toàn bộ lực lượng quân sự Việt Nam ra khỏi Cambodia và Lào và tiến hành một đợt phục viên khổng lồ trong quân đội thường trực Việt Nam.
Nhưng có lẽ nghị quyết quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện tại là nghị quyết số 13, được thông qua vào tháng Năm 1988. Nghị quyết này kêu gọi một “chính sách ngoại giao đa phương,” ưu tiên cho phát triển kinh tế và lần đầu tiên sử dụng khái niệm “lợi ích dân tộc”. Nghị quyết này báo hiệu một cách rõ ràng sự chấm dứt của quan điểm hai thế giới và chấp thuận Việt Nam nên đón nhận một thế giới phụ thuộc lẫn nhau. Việt Nam giờ đây đã quyết tâm chuyển toàn bộ chính sách ngoại giao đối đầu sang một chính sách hoà giải với những cựu thù.
Việt Nam hợp nhất chính sách ngoại giao đa phương của mình tại Đại hội Đảng Toàn Quốc lần thứ 7 vào tháng Bảy 199. Các tài liệu về chính sách đối ngoại kêu gọi Việt Nam “đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ thương mại với tất cả các nước và tổ chức kinh tế bất chấp những hệ thống chính trị xã hội khác biệt.” Chỉ trong bốn năm, Việt Nam đã đạt được thành công đáng kể trong việc bắt kịp mục tiêu mới của mình. Vào tháng Mười một 1991, Việt Nam và Trung Quốc chấm dứt mối bất hoà và vào năm 1995, Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, ký kết một hiệp ước hợp tác với Liên Âu và trở thành thành viên thứ bảy trong khối ASEAN.
Chính sách mở cửa của Việt Nam trong việc đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ thương mại đã được tái xác định tại những kỳ đại hội đảng kế tiếp. Ví dụ như Đại hội Đảng lần Chín vào năm 2001 đã tuyên bố rằng ‘Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước.” Đại hội lần chín cũng đưa ra mục tiêu đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và trở thành một quốc gia công nghiệp hoá hiện đại vào năm 2020. Đại hội Đảng gần đây nhất, đại hội lần thứ 11 vào năm 2011 còn đi xa hơn nữa khi kêu gọi Việt Nam phải chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới
Là một phần trong việc đẩy mạnh tiếp cận thế giới, vào năm 2001 Việt Nam đã tuyên bố sẽ ưu tiên phát triển quan hệ với “các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng và các quốc gia bạn bè truyền thống,” ám chỉ Trung Quốc, Lào, Cambodia và kế đến là Nga. Kể từ đấy, Việt Nam đã theo đuổi một chiến lược rộng lớn hơn trong việc đẩy mạnh quan hệ gần gũi với các thành viên vĩnh viễn Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và những cường quốc chính ở Đông bắc Á, Đông nam Á, Nam Á và châu Âu, cam kết hợp tác chiến lược với Liên bang Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Anh Quốc và Đức. Úc cũng có chương trình hợp tác quốc phòng quan trọng với Việt Nam, nhưng chỉ muốn dùng khái niệm “đối tác toàn diện”.
Mỗi đối tác chiến lược đều khác nhau, nhưng chúng đều phản ánh trọng tâm mà Việt Nam đưa ra trong việc xây dựng hàng loạt quan hệ toàn diện rộng rãi kể từ đầu thập niên 1990. Trong đó có bốn đối tác đặc biệt quan trọng và đáng để phân tích chi tiết.
Thoả thuận đối tác chiến lược 2001 giữa Việt Nam và Nga là một trong những thoả thuận đầu tiên ở dạng này. Nó đề ra mối hợp tác rộng rãi trong những lĩnh vực quan trọng bao gồm chính trị và ngoại giao, quân cụ và kỹ thuật, việc phát triển nguồn năng lượng từ khai thác dầu khí đến thuỷ điện và điện hạt nhân, đầu tư thương mại, khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo, văn hoá và du lịch. Vào tháng Bảy 2012, Việt Nam và Nga đã nâng cấp quan hệ song phương của mình thành đối tác chiến lược toàn diện để phản ánh những đợt mua vũ khí quan trọng gần đây. Tuy nhiên, quan hệ kinh tế song phương vẫn là một điểm yếu trong mối quan hệ toàn bộ. Thương mại song phương chỉ trị giá ở mức 2 tỉ Mỹ kim trong năm 2011, trong khi Nga vẫn đứng sau những đối tác chiến lược khác của Việt Nam về giá trị đầu tư.
Năm 2006, Việt Nam ký kết hiệp định đối tác chiến lược với Nhật Bản trong đó kêu gọi những cuộc thăm viếng cấp cao và thiết lập một Uỷ ban Hợp tác Chung cấp bộ. Trong năm kế tiếp, Nhật Bản và Việt Nam đã thông qua một nghị trình 44 điểm bao gồm bảy lĩnh vực hợp tác lâu dài: trao đổi chính sách cấp cao, quan hệ kinh tế, cải cách hành chính và luật pháp, khoa học kỹ thuật, trao đổi nhân sự, hợp tác trên các các diễn đàn đa phương và cam kết trong những vấn đề liên quan đến thay đổi khí hậu, môi trường, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ. Nhật hiện đang là nhà cung cấp nguồn tài trợ phát triển lớn nhất cho Việt Nam và là đối tác thương mại thứ nhì với tổng giá trị giao thương song phương đạt đến 21 tỉ Mỹ kim trong năm 2011 và cũng là nhà đầu tư lớn thứ ba ở Việt Nam.
Thoả thuận đối tác chiến lược mà Việt Nam ký kết với Ấn Độ vào năm 2007 đã vạch ra mối hợp tác trong năm lĩnh vực lớn: chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế và tiếp cận mậu dịch, khoa học kỹ thuật, văn hoá và các vấn đề đa phương và khu vực. Đối tác này vẫn mạnh nhất trong lĩnh vực hợp tác chính trị, an ninh quốc phòng trước những thách thức từ sự đi lên của Trung Quốc đặt ra cho hai quốc gia, trong đó Ấn Độ đóng vai nhà cung cấp lớn thứ hai về huấn luyện quân sự và vũ khí sau Nga. Tuy nhiên cũng như đối tác Việt - Nga, đối tác Việt - Ấn vẫn chưa khai thác toàn bộ tiềm năng kinh tế, cả hai bên đều thừa nhận vấn đề này khi chủ tịch Việt Nam thăm viếng Ấn Độ vào tháng Mười 2011. Thương mại hai bên đạt ở mức 3,9 tỉ Mỹ kim trong năm ngoái.
Cuối cùng, đối tác chiến lược của Việt Nam với Trung Quốc, được thông qua vào năm 2008, đã vượt xa hơn xu hướng dần dần phát triển quan hệ, được kéo dài hai thập niên sau khi bình thường hoá quan hệ vào năm 1991. Mội hội nghị vào tháng Ba 1999 giữa lãnh đạo hai Đảng Cộng sản đã thông qua cơ cấu 16 chữ vàng, kêu gọi “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.” Một công bố chung được đưa ra vào năm kế trong đó thiết lập nền tảng cho quan hệ lâu dài giữa hai quốc gia vốn vẫn được áp dụng cho đến ngày nay. Trong giai đoạn này, Trung Quốc và Việt Nam cũng đã đạt được một thoả thuận phân đường biên giới đất liền và qui định đường lãnh hải trên Vịnh Bắc Bộ, thiết lập một khu vực đánh bắt cá chung. Rồi vào năm 2006, Việt Nam và Trung Quốc lại tạo ra một Uỷ ban Hướng dẫn Chung về Hợp tác Song phương ở mức thứ trưởng để điều phối mọi khía cạnh trong mối quan hệ song phương.
Mối quan hệ này chính thức được nâng cấp thành một đối tác chiến lược sau một hội nghị các nhà lãnh đạo đảng tại Bắc Kinh vào tháng Sáu 2008, và lại nâng cấp lên thành đối tác hợp tác chiến lược một năm sau đó. Dưới cơ cấu này, Trung Quốc và Việt Nam đã xây dựng một mạng lưới dày đặc gồm các cơ chế từ đảng, nhà nước, quốc phòng và đa phương để quản lý mối quan hệ song phương. Những cơ chế này tiếp tục hoạt động một cách hiệu quả bất kể những tranh chấp lãnh thổ trên biển Đông. Thương mại song phương đã vươn lên mạnh mẽ ở mức 36,9 tỉ Mỹ kim vào tháng Mười một 2012.
Quan hệ Việt - Trung còn được biểu hiện qua sự tựu trung quyền lợi trong một loạt vấn đề, cả trong nước và trong khu vực, vượt qua những cơ chế song phương chính thức. Ở mức độ đối nội, cả hai đều tìm cách cải tổ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà không gây bất ổn cho chế độ độc đảng. Ở mức độ khu vực, cả hai đều tìm kiếm lợi ích qua việc hội nhập khu vực, bao gồm Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Trung Quốc và Khu vực Tiểu vùng Mê Kông Mở rộng. Bao quát hơn, cả hai đều chia sẻ mối quan tâm trong việc giữ gìn một môi trường khu vực hoà bình và ổn định.
Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ vào năm 1995 sau khi chính quyền Clinton bãi bỏ lệnh cấm vận mậu dịch từ thời Chiến tranh Việt Nam. Quan hệ song phương sau đó đã được phát triển dần, điểm cao trào là vào năm 2000 với bước ngoặt thoả thuận thương mại song phương. Trong năm 2011, tổng số thương mại song phương đã đạt đến 21,8 tỉ Mỹ kim, với việc Việt Nam đạt con số thặng dư kỷ lục 13,1 tỉ. Các công ty Mỹ đã đầu tư hơn 10 tỉ vào Việt Nam, biến Hoa Kỳ thành một trong 10 nhà đầu tư lớn nhất vào nước này.
Một thay đổi quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã xảy ra vào giữa năm 2003, khi hội nghị toàn thể lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN thay đổi hai khái niệm tư tưởng then chốt -- “Đối tượng” và “Đối tác” trong quan hệ ngoại giao, ám chỉ Hoa Kỳ và Trung Quốc theo cùng thứ tự. Nghị quyết của hội nghị tám kêu gọi việc áp dụng một cách tinh tế hơn khi biện chứng hai khái niệm này: “Với các đối tượng, chúng ta có thể tìm kiếm những lĩnh vực để hợp tác, với các đối tác, hiện có những quyền lợi trái ngược với quyền lợi của chúng ta.” Nghị quyết này tạo ra chính sách hợp lý để Việt Nam tăng cường hợp tác với Hoa Kỳ, bao gồm những lĩnh vực nhạy cảm về hợp tác an ninh và quốc phòng. Sau hội nghị, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam lần đầu tiên đã đến thăm Washington, và Việt Nam cũng đồng ý cho những chuyến thăm cảng thường niên đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ.
Bên cạnh những đối tác chiến lược, Việt Nam cũng đã nhấn mạnh vào việc tiếp cận với các cơ quan đa phương trong khu vực và trên thế giới. Từ năm 1995, Việt Nam đã nổi lên như là một thành viên năng nổ của ASEAN và hệ thống an ninh khu vực mang trọng tâm ASEAN, bao gồm Diễn đàn Khu vực ASEAN, quá trình Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Việt Nam cũng tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương vào năm 1998 và trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007. Năm 2008, trong một thử nghiệm về chính sách ngoại giao được xem là thành công nhất của mình, Việt Nam đã được khối châu Á nhất trí lựa chọn làm thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, được sự ủng hộ nồng nhiệt của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc và đã phục vụ trong Hội đồng Bảo an từ 2008 đến 2009. Lê Lương Minh, đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc lúc ấy, đã trở thành tổng thư ký ASEAN vào tháng Giêng 2013 với thời hạn 5 năm.
Carlyle Thayer
Diên Vỹ chuyển ngữ
Nguồn: Strategic Posture Review: Vietnam - World Politics Review
Photo World Politics Review |
Liên Xô thay thế Trung Quốc để trở thành nhà viện trợ và khuôn mẫu phát triển chính của Việt Nam trong cuối thập niên 1950, khi Việt Nam áp dụng nền kinh tế tập trung. Kế hoạch Ba Năm Đầu tiên (1958-1960) và Năm Năm Đầu tiên (1961-1965) tập trung vào việc xây dựng ngành công nghiệp nặng. Sau thập niên 1960, đã có một thế hệ những người cộng sản Việt Nam mới được đào tạo tại Liên Xô, và ngày nay họ đại diện cho một tiếng nói đầy ảnh hưởng bên trong ĐCSVN đó là tiếp tục xem Nga như là một đối tác không thể thiếu trong việc phát triển và hiện đại hoá đất nước.
Khi ĐCSVN tìm cách thống nhất đất nước bằng cách tái lập cuộc chiến tranh vũ trang ở Nam Việt nam từ 1960 đến 1973, nguồn viện trợ chủ yếu của họ đến từ Trung Quốc lẫn Liên Xô. Trong cùng lúc, Bắc Việt Nam cũng tìm kiếm và đạt được hỗ trợ về chính trị lẫn vật chất từ các quốc gia xã hội chủ nghĩa Đông Âu, những nhà nước cách mạng và Phong trào Không Liên kết nhằm đạt được mục tiêu thống nhất đất nước của mình.
Kinh nghiệm đã dạy cho Việt Nam giá trị của việc chủ động sử dụng quan hệ ngoại giao quốc tế như là công cụ để đạt được quyền lợi quốc gia. Họ đã tận dụng bài học này để làm lợi thế cho mình khi những dị biệt về học thuyết nổ ra giữa Liên Xô và Trung Quốc trong những năm 1960 dẫn đến việc chia rẽ trong khối xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới. Trong khi những diễn tiến này tạo ra trở ngại cho giới lãnh đạo Việt Nam, họ đã nhanh chóng biến khó khăn thành lợi thế, phát động những nỗ lực ngoại giao quốc tế rộng rãi để biến Việt Nam thành trọng tâm của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc trên toàn cầu.
Ban đầu, cả Bắc Kinh lẫn Moscow đều không muốn bị xem là thiếu ủng hộ một đất nước nhỏ bé nghèo đói đang đấu tranh giành độc lập trước một nước Mỹ hùng mạnh đang can thiệp để hỗ trợ Nam Việt Nam trong cuộc chiến. Kết quả là các nhà ngoại giao Việt Nam đã biến mối kình địch Trung - Mỹ thành lợi thế của mình để có được vũ khí và những viện trợ khác. Giới lãnh đạo Việt Nam ngày nay cũng sử dụng một chiến lược tương tự trong việc giữ gìn quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Bối cảnh chiến lược của Việt Nam đã biến đổi từ cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 khi Tổng thống Hoa Kỳ lúc ấy là Richard Nixon tìm cách nối lại quan hệ với Trung Quốc. Chuyến thăm Bắc Kinh vào tháng Hai năm 1972 của Nixon là thời điểm thay đổi nó, sau đấy Trung Quốc bắt đầu cắt giảm viện trợ quân sự cho Việt Nam. Việc thay đổi chính sách của Trung Quốc dẫn đến tình trạng căng thẳng trong quan hệ Trung - Việt vào lúc cuộc chiến Việt Nam sắp chấm dứt. Những diễn tiến này đã củng cố niềm tin của nhiều người trong ĐCSVN rằmg những cường quốc chỉ biết chạy theo quyền lợi của chính mình. Họ kết luận rằng Việt Nam phải luôn cảnh giác để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi dân tộc.
Sau khi thống nhất đất nước vào năm 1975, Việt Nam tìm cách tái tổ chức nền kinh tế miền nam theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hà Nội quay lại chính sách kế hoạch tập trung với hàng loạt những kế hoạch 5 năm được khởi xướng vào năm 1976. Liên Xô vẫn là nguồn viện trợ chính từ nước ngoài và cứ sau mỗi kế hoạch 5 năm thành công lại tăng đôi số lượng trợ giúp.
Sự tiến bộ trong quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô lại trái ngược với mối quan hệ Trung - Việt đang bị xấu đi nhanh chóng, nó đạt đến điểm đáy khi Trung Quốc ủng hộ lực lượng Khmer Đỏ tại quốc gia láng giềng Cambodia. Vào năm 1977, Khmer Đỏ đã tổ chức những đợt xâm lấn qua biên giới vào miền nam Việt Nam. Mặc dù Việt Nam đã trả đũa với một cuộc tấn công qui mô lớn vào Cambodia, những cuộc xâm lấn của Khmer Đỏ do Trung Quốc hậu thuẫn vẫn tiếp tục.
Năm kế tiếp đã đánh dấu một điểm chuyển. Khi Việt Nam tham gia vào Hội đồng Hỗ trợ Kinh tế do Liên Xô đứng đầu vào giữa năm 1978, Trung Quốc phản ứng bằng cách cắt đứt chương trình viện trợ và rút hết các cố vấn về nước. Để đáp trả, Việt Nam ngã hoàn toàn về Liên Xô. Vào tháng Mười một 1978, Moscow và Hà Nội đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác 25 năm. Từ đó Việt Nam đã xem Liên Xô là điểm tựa của các chính sách quốc phòng và an ninh quốc gia của mình.
Vào tháng Mười hai năm ấy, Việt Nam đã tấn công và chiếm đóng Cambodia. Trung Quốc trả đũa vào đầu năm 1979 với một cuộc tấn công quân sự lớn vào các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam với mục đích “dạy cho Việt Nam một bài học.” Việt Nam sau đó đã đáp trả bằng cách cho phép Liên Xô được quyền đặt căn cứ tại Vịnh Cam Ranh. Mâu thuẫn Cambodia nhanh chóng chuyển thành một cuộc chiến tranh đại diện giữa Trung Quốc vốn đang hỗ trợ Khmer Đỏ và Liên Xô đang hậu thuẫn Việt Nam.
Vì chiếm đóng Cambodia, Việt Nam đã bị cắt viện trợ quốc tế và cấm vận thương mại. Ví dụ cả Nhật Bản và Úc đều đã phản đối bằng cách đình chỉ những chương trình hỗ trợ phát triển. Các quốc gia Đông nam Á trong tổ chức ASEAN đã đi đầu trong việc gây áp lực ngoại giao tại Liên Hiệp Quốc và các diễn đàn quốc tế khác nhằm ngăn cản chính phủ lệ thuộc do Việt Nam lập ra là Cộng hoà Nhân dân Kampuchea được chính thức công nhận ngoại giao.
Vấn đề Cambodia cuối cùng cũng đã chấm dứt bằng ba tiến triển quan trọng. Thứ nhất, Việt Nam nhận ra rằng cái giá phải trả trong việc can thiệp vào Cambodia thì quá nặng đối với công cuộc phát triển của mình. Trong khi nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng với sự sụp đổ của hệ thống kế hoạch tập trung theo kiểu Xô Viết, Việt Nam đã tiến hành một chương trình cải cách quan trọng vào tháng Mười hai năm 1986 được biết với cái tên “đổi mới”. Từ bỏ nền kinh tế kế hoạch tập trung, Việt Nam bắt đầu thử nghiệm những lực lượng kinh tế thị trường một cách cẩn trọng trong khi cũng kêu gọi đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Thứ hai, sự xuất hiện của tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev vào năm 1985 đã khởi động những thay đổi có ảnh hưởng rộng rãi trong chính sách của nhà nước Xô Viết, cả trong nước lẫn quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ. Những thay đổi này đã tạo thêm áp lực bắt Việt Nam phải thay đổi nền kinh tế của mình và rút quân khỏi Cambodia và họ đã hoàn thành việc rút quân vào tháng Chín năm 1989.
Thứ ba, ngay sau khi Bức màn Sắt sụp đổ ở Đông Âu, năm thành viên vĩnh viễn của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã có được một giai đoạn hợp tác dù ngắn ngủi nhưng chưa từng xảy ra, trong đó bao gồm những nỗ lực củng cố khu vực để đem lại những dàn xếp hoà bình cho Cambodia vào năm 1991.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu và sự tan rã của Liên bang Xô viết chắc chắn đã làm thay đổi bối cảnh chiến lược của Việt Nam, tạo nền tảng cho Việt Nam bước ra khỏi vòng cô lập và tiếp cận trực tiếp hơn với cộng đồng quốc tế trong khu vực lẫn toàn cầu.
Tuy nhiên, bất chấp sự đồng thuận trong toàn thể nội bộ ĐCSVN về việc cần thiết phải cải cách nền kinh tế trong nước, đảng vẫn tiếp tục bị chia rẽ trên nền tảng tư tưởng về định hướng chiến lược đối ngoại của đất nước. Giới bảo thủ trong đảng muốn Việt Nam nên nghiêng về Trung Quốc. Họ cho rằng Hoa Kỳ chỉ muốn lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa qua cái gọi là diễn biến hoà bình. Họ cũng tin rằng Việt Nam và Trung Quốc có thể giải quyết được những tranh chấp về hải phận trên biển Đông một cách hoà bình. Trong khi ấy những người cấp tiến trong đảng lại cho rằng Việt Nam không còn lựa chọn nào khác ngoài việc hoà nhập với nền kinh tế toàn cầu và tiến hành quan hệ ngoại giao với tất cả các quốc gia bất chấp hệ thống chính trị nào. Đặc biệt là họ muốn tiếp cận với những quốc gia có kinh tế phát triển, bao gồm Hoa Kỳ, để có được sức bật cho quá trình phát triển và hiện đại hoá của Việt Nam.
Cho đến nay, tình trạng chia rẽ này trong đảng vẫn tiếp tục ngăn cản sự phát triển của nền kinh tế thị trường và giới hạn mối quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ. Về mặt chính trị, Việt Nam vẫn giữ nguyên là một quốc gia độc tài và độc đảng.
Chính sách đối ngoại
Trong suốt 40 năm sau khi Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập từ Pháp vào năm 1945, giới lãnh đạo cộng sản của Việt Nam đã chấp nhận một thế giới quan đồng nhất với tư tưởng Mác xít - Lê nin nít đang thịnh hành. Theo quan điểm này, hướng đi của nền chính trị toàn cầu được xác định bởi những mâu thuẫn giữa hai thế giới xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, hay nói nôm na là giữa “địch và ta”. Mối tương quan giữa hai thế giới này là một cuộc đấu tranh “ai thắng ai”. Trong suốt giai đoạn 1945-1985, Việt Nam xem mình là tiền đồn của cuộc đấu tranh này. Hệ quả là giới lãnh đạo Việt Nam cảm thấy khối xã hội chủ nghĩa đã nợ Việt Nam không chỉ về tinh thần đoàn kết chính trị mà còn về việc ủng hộ vật chất.
Thế giới quan này bắt đầu thay đổi trong từ giữa đến cuối thập niên 1980, tuy nhiên khi những nhà soạn thảo chính sách Việt Nam bắt đầu nhấn mạnh hơn về quyền lợi quốc gia và ngoại giao thực dụng, trong khi cũng thừa nhận sức mạnh của kinh tế toàn cầu cũng như tác động của khoa học kỹ thuật là những yếu tố quyết định sức mạnh. Học thuyết hai thế giới của Việt Nam dần dần phải nhường bước cho một quan điểm tích cực hơn về hội nhập với kinh tế thế giới. Trong khi quan điểm cũ cho rằng mở mang quan hệ kinh tế với các quốc gia tư bản sẽ dẫn đến tình trạng nương tựa kinh tế và hoà nhập, quan điểm mới lại nhấn mạnh tính hội nhập, vốn được xem là tích cực hơn vì nó tạo ra cơ hội lẫn thách thức. Thế giới quan này cũng đón nhận một chính sách an ninh toàn cục hơn so với khái niệm an ninh quân sự cũ hạn hẹp.
Sự chuyển hướng này, vốn là sản phẩm phụ của việc thay đổi hoàn cảnh chiến lược, đã mở ra một cuộc tranh cãi gay gắt trong nội bộ đảng và vẫn còn tiếp tục cho đến nay, và khuôn khổ tư tưởng cũ trong quá khứ cũng vẫn chưa được từ bỏ hoàn toàn. Tàn dư của nó có thể thấy được hiện nay qua những ám chỉ về “mối đe doạ diễn biến hoà bình” như là thách thức chủ yếu đối với nền an ninh quốc gia Việt Nam.
Tuy nhiên, đã có một cuộc cách mạng trong thế giới quan của Việt Nam, bằng chứng là đã có ba nghị quyết được thông qua bởi Bộ Chính trị ĐCSVN. Nghị quyết đầu tiên số 32, được thông qua vào tháng Bảy 1986, tuyên bố “cần chủ động hơn trong giai đoạn phát triển mới, và chung sống hoà bình với Trung Quốc, ASEAN và Hoa Kỳ, và xây dựng Đông nam Á thành một khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác.” Theo những chủ trương này, các báo cáo chính trị lên Đại hội Đảng Toàn Quốc lần Sáu vào cuối năm 1986 đã ưu tiên mở rộng và nâng cao tính hiệu quả của các quan hệ kinh tế với bên ngoài.
Nghị quyết thứ hai, số 2, được thông qua năm 1987, yêu cầu rút toàn bộ lực lượng quân sự Việt Nam ra khỏi Cambodia và Lào và tiến hành một đợt phục viên khổng lồ trong quân đội thường trực Việt Nam.
Nhưng có lẽ nghị quyết quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện tại là nghị quyết số 13, được thông qua vào tháng Năm 1988. Nghị quyết này kêu gọi một “chính sách ngoại giao đa phương,” ưu tiên cho phát triển kinh tế và lần đầu tiên sử dụng khái niệm “lợi ích dân tộc”. Nghị quyết này báo hiệu một cách rõ ràng sự chấm dứt của quan điểm hai thế giới và chấp thuận Việt Nam nên đón nhận một thế giới phụ thuộc lẫn nhau. Việt Nam giờ đây đã quyết tâm chuyển toàn bộ chính sách ngoại giao đối đầu sang một chính sách hoà giải với những cựu thù.
Việt Nam hợp nhất chính sách ngoại giao đa phương của mình tại Đại hội Đảng Toàn Quốc lần thứ 7 vào tháng Bảy 199. Các tài liệu về chính sách đối ngoại kêu gọi Việt Nam “đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ thương mại với tất cả các nước và tổ chức kinh tế bất chấp những hệ thống chính trị xã hội khác biệt.” Chỉ trong bốn năm, Việt Nam đã đạt được thành công đáng kể trong việc bắt kịp mục tiêu mới của mình. Vào tháng Mười một 1991, Việt Nam và Trung Quốc chấm dứt mối bất hoà và vào năm 1995, Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, ký kết một hiệp ước hợp tác với Liên Âu và trở thành thành viên thứ bảy trong khối ASEAN.
Chính sách mở cửa của Việt Nam trong việc đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ thương mại đã được tái xác định tại những kỳ đại hội đảng kế tiếp. Ví dụ như Đại hội Đảng lần Chín vào năm 2001 đã tuyên bố rằng ‘Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước.” Đại hội lần chín cũng đưa ra mục tiêu đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và trở thành một quốc gia công nghiệp hoá hiện đại vào năm 2020. Đại hội Đảng gần đây nhất, đại hội lần thứ 11 vào năm 2011 còn đi xa hơn nữa khi kêu gọi Việt Nam phải chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới
Là một phần trong việc đẩy mạnh tiếp cận thế giới, vào năm 2001 Việt Nam đã tuyên bố sẽ ưu tiên phát triển quan hệ với “các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng và các quốc gia bạn bè truyền thống,” ám chỉ Trung Quốc, Lào, Cambodia và kế đến là Nga. Kể từ đấy, Việt Nam đã theo đuổi một chiến lược rộng lớn hơn trong việc đẩy mạnh quan hệ gần gũi với các thành viên vĩnh viễn Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và những cường quốc chính ở Đông bắc Á, Đông nam Á, Nam Á và châu Âu, cam kết hợp tác chiến lược với Liên bang Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Anh Quốc và Đức. Úc cũng có chương trình hợp tác quốc phòng quan trọng với Việt Nam, nhưng chỉ muốn dùng khái niệm “đối tác toàn diện”.
Mỗi đối tác chiến lược đều khác nhau, nhưng chúng đều phản ánh trọng tâm mà Việt Nam đưa ra trong việc xây dựng hàng loạt quan hệ toàn diện rộng rãi kể từ đầu thập niên 1990. Trong đó có bốn đối tác đặc biệt quan trọng và đáng để phân tích chi tiết.
Thoả thuận đối tác chiến lược 2001 giữa Việt Nam và Nga là một trong những thoả thuận đầu tiên ở dạng này. Nó đề ra mối hợp tác rộng rãi trong những lĩnh vực quan trọng bao gồm chính trị và ngoại giao, quân cụ và kỹ thuật, việc phát triển nguồn năng lượng từ khai thác dầu khí đến thuỷ điện và điện hạt nhân, đầu tư thương mại, khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo, văn hoá và du lịch. Vào tháng Bảy 2012, Việt Nam và Nga đã nâng cấp quan hệ song phương của mình thành đối tác chiến lược toàn diện để phản ánh những đợt mua vũ khí quan trọng gần đây. Tuy nhiên, quan hệ kinh tế song phương vẫn là một điểm yếu trong mối quan hệ toàn bộ. Thương mại song phương chỉ trị giá ở mức 2 tỉ Mỹ kim trong năm 2011, trong khi Nga vẫn đứng sau những đối tác chiến lược khác của Việt Nam về giá trị đầu tư.
Năm 2006, Việt Nam ký kết hiệp định đối tác chiến lược với Nhật Bản trong đó kêu gọi những cuộc thăm viếng cấp cao và thiết lập một Uỷ ban Hợp tác Chung cấp bộ. Trong năm kế tiếp, Nhật Bản và Việt Nam đã thông qua một nghị trình 44 điểm bao gồm bảy lĩnh vực hợp tác lâu dài: trao đổi chính sách cấp cao, quan hệ kinh tế, cải cách hành chính và luật pháp, khoa học kỹ thuật, trao đổi nhân sự, hợp tác trên các các diễn đàn đa phương và cam kết trong những vấn đề liên quan đến thay đổi khí hậu, môi trường, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ. Nhật hiện đang là nhà cung cấp nguồn tài trợ phát triển lớn nhất cho Việt Nam và là đối tác thương mại thứ nhì với tổng giá trị giao thương song phương đạt đến 21 tỉ Mỹ kim trong năm 2011 và cũng là nhà đầu tư lớn thứ ba ở Việt Nam.
Thoả thuận đối tác chiến lược mà Việt Nam ký kết với Ấn Độ vào năm 2007 đã vạch ra mối hợp tác trong năm lĩnh vực lớn: chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế và tiếp cận mậu dịch, khoa học kỹ thuật, văn hoá và các vấn đề đa phương và khu vực. Đối tác này vẫn mạnh nhất trong lĩnh vực hợp tác chính trị, an ninh quốc phòng trước những thách thức từ sự đi lên của Trung Quốc đặt ra cho hai quốc gia, trong đó Ấn Độ đóng vai nhà cung cấp lớn thứ hai về huấn luyện quân sự và vũ khí sau Nga. Tuy nhiên cũng như đối tác Việt - Nga, đối tác Việt - Ấn vẫn chưa khai thác toàn bộ tiềm năng kinh tế, cả hai bên đều thừa nhận vấn đề này khi chủ tịch Việt Nam thăm viếng Ấn Độ vào tháng Mười 2011. Thương mại hai bên đạt ở mức 3,9 tỉ Mỹ kim trong năm ngoái.
Cuối cùng, đối tác chiến lược của Việt Nam với Trung Quốc, được thông qua vào năm 2008, đã vượt xa hơn xu hướng dần dần phát triển quan hệ, được kéo dài hai thập niên sau khi bình thường hoá quan hệ vào năm 1991. Mội hội nghị vào tháng Ba 1999 giữa lãnh đạo hai Đảng Cộng sản đã thông qua cơ cấu 16 chữ vàng, kêu gọi “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.” Một công bố chung được đưa ra vào năm kế trong đó thiết lập nền tảng cho quan hệ lâu dài giữa hai quốc gia vốn vẫn được áp dụng cho đến ngày nay. Trong giai đoạn này, Trung Quốc và Việt Nam cũng đã đạt được một thoả thuận phân đường biên giới đất liền và qui định đường lãnh hải trên Vịnh Bắc Bộ, thiết lập một khu vực đánh bắt cá chung. Rồi vào năm 2006, Việt Nam và Trung Quốc lại tạo ra một Uỷ ban Hướng dẫn Chung về Hợp tác Song phương ở mức thứ trưởng để điều phối mọi khía cạnh trong mối quan hệ song phương.
Mối quan hệ này chính thức được nâng cấp thành một đối tác chiến lược sau một hội nghị các nhà lãnh đạo đảng tại Bắc Kinh vào tháng Sáu 2008, và lại nâng cấp lên thành đối tác hợp tác chiến lược một năm sau đó. Dưới cơ cấu này, Trung Quốc và Việt Nam đã xây dựng một mạng lưới dày đặc gồm các cơ chế từ đảng, nhà nước, quốc phòng và đa phương để quản lý mối quan hệ song phương. Những cơ chế này tiếp tục hoạt động một cách hiệu quả bất kể những tranh chấp lãnh thổ trên biển Đông. Thương mại song phương đã vươn lên mạnh mẽ ở mức 36,9 tỉ Mỹ kim vào tháng Mười một 2012.
Quan hệ Việt - Trung còn được biểu hiện qua sự tựu trung quyền lợi trong một loạt vấn đề, cả trong nước và trong khu vực, vượt qua những cơ chế song phương chính thức. Ở mức độ đối nội, cả hai đều tìm cách cải tổ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà không gây bất ổn cho chế độ độc đảng. Ở mức độ khu vực, cả hai đều tìm kiếm lợi ích qua việc hội nhập khu vực, bao gồm Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Trung Quốc và Khu vực Tiểu vùng Mê Kông Mở rộng. Bao quát hơn, cả hai đều chia sẻ mối quan tâm trong việc giữ gìn một môi trường khu vực hoà bình và ổn định.
Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ vào năm 1995 sau khi chính quyền Clinton bãi bỏ lệnh cấm vận mậu dịch từ thời Chiến tranh Việt Nam. Quan hệ song phương sau đó đã được phát triển dần, điểm cao trào là vào năm 2000 với bước ngoặt thoả thuận thương mại song phương. Trong năm 2011, tổng số thương mại song phương đã đạt đến 21,8 tỉ Mỹ kim, với việc Việt Nam đạt con số thặng dư kỷ lục 13,1 tỉ. Các công ty Mỹ đã đầu tư hơn 10 tỉ vào Việt Nam, biến Hoa Kỳ thành một trong 10 nhà đầu tư lớn nhất vào nước này.
Một thay đổi quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã xảy ra vào giữa năm 2003, khi hội nghị toàn thể lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN thay đổi hai khái niệm tư tưởng then chốt -- “Đối tượng” và “Đối tác” trong quan hệ ngoại giao, ám chỉ Hoa Kỳ và Trung Quốc theo cùng thứ tự. Nghị quyết của hội nghị tám kêu gọi việc áp dụng một cách tinh tế hơn khi biện chứng hai khái niệm này: “Với các đối tượng, chúng ta có thể tìm kiếm những lĩnh vực để hợp tác, với các đối tác, hiện có những quyền lợi trái ngược với quyền lợi của chúng ta.” Nghị quyết này tạo ra chính sách hợp lý để Việt Nam tăng cường hợp tác với Hoa Kỳ, bao gồm những lĩnh vực nhạy cảm về hợp tác an ninh và quốc phòng. Sau hội nghị, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam lần đầu tiên đã đến thăm Washington, và Việt Nam cũng đồng ý cho những chuyến thăm cảng thường niên đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ.
Bên cạnh những đối tác chiến lược, Việt Nam cũng đã nhấn mạnh vào việc tiếp cận với các cơ quan đa phương trong khu vực và trên thế giới. Từ năm 1995, Việt Nam đã nổi lên như là một thành viên năng nổ của ASEAN và hệ thống an ninh khu vực mang trọng tâm ASEAN, bao gồm Diễn đàn Khu vực ASEAN, quá trình Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Việt Nam cũng tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương vào năm 1998 và trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007. Năm 2008, trong một thử nghiệm về chính sách ngoại giao được xem là thành công nhất của mình, Việt Nam đã được khối châu Á nhất trí lựa chọn làm thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, được sự ủng hộ nồng nhiệt của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc và đã phục vụ trong Hội đồng Bảo an từ 2008 đến 2009. Lê Lương Minh, đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc lúc ấy, đã trở thành tổng thư ký ASEAN vào tháng Giêng 2013 với thời hạn 5 năm.
Carlyle Thayer
Diên Vỹ chuyển ngữ
Nguồn: Strategic Posture Review: Vietnam - World Politics Review
Không có nhận xét nào